Kinh tế châu Âu là nền kinh tế của hơn 710 triệu người sống trong 48 quốc gia khác nhau ở châu Âu. Giống như các lục địa khác, tài sản của các quốc gia châu Âu không đều nhau, mặc dù theo GDP và điều kiện sống, số người nghèo nhất vẫn có mức sống cao hơn nhiều so với những người nghèo ở các lục địa khác. Sự khác nhau về tài sản của các quốc gia có thể nhìn thấy rõ nét giữa các nước Đông Âu và Tây Âu. Trong khi các quốc gia Tây Âu có GDP và mức sống cao, nhiều nền kinh tế Đông Âu vẫn bị ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng của Liên Xô và Yugoslavia trước đây.
Có những quốc gia khá nổi tiếng, khá phát triển về ngành du lịch nhưng lại nằm trong danh sách những nước nghèo nhất châu Âu khiến nhiều người không khỏi bất ngờ. Tuy nhiên, không phải vì điều này mà người dân ở các quốc gia ấy có cuộc sống khó khăn, thiếu thốn. Có thể khẳng định một điều rằng mức sống của người dân ở các nước nghèo nhất châu Âu vẫn cao hơn mức sống trung bình của một vài châu lục khác. Sau đây, 10hay xin giới thiệu danh sách top 10 nước nghèo nhất châu Âu xét theo chỉ số GDP bình quân đầu người trong những năm gần đây:
1. Vatican
Với GDP bình quân đầu người đạt 1.325 USD, Vatican dẫn đầu trong số những nước nghèo nhất châu Âu. Vatican là quốc gia duy nhất có kinh tế phi thương mại được tài trợ chính từ sự đóng góp (gọi là Quỹ Phêrô) của giáo dân Thiên Chúa giáo trên toàn cầu, từ tiền bán tem thư và đồ lưu niệm cho du khách, tiền bán vé tham quan các Viện bảo tàng, tiền bán các ấn phẩm. Lực lượng lao động Hàng giáo sĩ: Giáo hoàng, Hồng y, Giám mục, Linh mục và các nam nữ tu sĩ, lính cận vệ, và 3.000 nhân viên không thuộc hàng giáo sĩ sống bên ngoài Vatican. Sản phẩm công nghiệp gồm sản phẩm in ấn (tranh ảnh), đồ khảm và đồng phục cho nhân viên Tòa Thánh.
2. Moldova
Moldova xếp thứ 2 trong số những nước nghèo nhất châu Âu, với GDP bình quân đầu người khoảng 2.037 USD. Mặc dù có sự tăng trưởng khá trong thời gian gần đây, Moldova vẫn là một trong số các quốc gia kém phát triển. Do không có tài nguyên khoáng sản nhưng có khí hậu thích hợp cho nông nghiệp, nền kinh tế Moldova phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là rau quả, rượu vang và thuốc lá. Sau sự sụp đổ của Liên Xô, nền kinh tế Moldova đã sa sút nhiều. Khó khăn lớn nhất của nền kinh tế là sự mất cân đối cơ cấu nghiêm trọng và sự phụ thuộc lớn vào bên ngoài về năng lượng, nợ nước ngoài lớn chưa có khả năng chi trả.
3. Kosovo
Kosovo xếp thứ 3 trong số những nước nghèo nhất châu Âu với GDP bình quân đầu người chỉ đạt 2.813 USD. Nền kinh tế của Kosovo là một nền kinh tế đang chuyển đổi. Kosovo từng là một phần của Liên Bang Nam Tư cũ với việc thừa hưởng những cơ sở hạ tầng hiện đại từ việc xây dựng kinh tế của Nam Tư từ những năm 1960 đến 1970, cho đến những năm 1990 thì khu vực này có dấu hiệu suy giảm do sự điều hành kém về kinh tế, chính trị cùng hàng loạt các vấn đề về xã hội, sắc tộc. Kể từ năm 2008, Kosovo tuyên bố độc lập thì nền kinh tế của Kosovo có vẻ khá khẩm hơn trong một vài năm.
4. Albania
GDP bình quân đầu người đạt 3.870 USD, xếp thứ tư trong 10 nước nghèo nhất châu Âu. Kinh tế Albania là nền kinh tế nghèo theo các tiêu chuẩn của Tây Âu và gặp nhiều khó khăn trong quá trình chuyển đổi từ mô hình cộng sản trong quá khứ sang mô hình kinh tế thị trường mở cửa. Lúc bắt đầu nỗ lực cải cách một cách nghiêm túc vào đầu năm 1992 sau khi GDP thực tế giảm hơn 50% từ đỉnh điểm vào năm 1989, Albania hiện đang có nạn tội phạm có tổ chức cao và tỷ lệ tham nhũng cao nhất tại châu Âu. Cải cách đang diễn ra để mà sửa chữa chúng.
5. Ukraine
GDP bình quân đầu người tại Ukraine đạt 3.877 USD, xếp thứ 5 trong số 10 nước nghèo nhất châu Âu. Kinh tế Ukraine là một nền kinh tế thị trường tự do mới nổi, với tổng sản phẩm quốc nội đã tăng trưởng tới hai con số trong những năm gần đây. Trước đây nó là một bộ phận của nền kinh tế Liên Xô. Nền kinh tế Ukraine đã trải qua nhiều bước thăng trầm lớn trong những năm 1990, bị siêu lạm phát và tụt dốc nhanh chóng; tăng trưởng GDP đã bắt đầu được ghi nhận từ năm 2000, và sự cải cách vẫn đang được tiếp tục.
6. Bosnia và Herzegovina
GDP bình quân đầu người: 4.461 USD, xếp thứ 6 trong số những nước nghèo nhất châu Âu. Bosnia và Herzegovina đối mặt với vấn đề kép xây dựng lại đất nước đã bị tàn phá bởi chiến tranh và thực hiện những cải cách thị trường cho nền kinh tế tập trung hế hoạch hoá trước đây của họ. Một di sản của thời trước là ngành công nghiệp quân sự với quá nhiều nhân công; dưới thời lãnh đạo cũ Josip Broz Tito, các ngành công nghiệp quân sự được khuyến khích bên trong nhà nước cộng hoà, dẫn tới sự phát triển một phần lớn các nhà máy quốc phòng Nam Tư tại đây nhưng lại ít những nhà máy thương mại. Trong hầu hết lịch sử Bosnia và Herzegovina, nông nghiệp dựa trên các trang trại nhỏ và kém hiệu quả của tư nhân; thực phẩm thường được nhập khẩu.
7. Macedonia
GDP bình quân đầu người: 4.660 USD, xếp thứ 7 trong số 10 nước nghèo nhất châu Âu. Macedonia chủ trương xây dựng kinh tế thị trường. Tuy nhiên với một nền kinh tế nhỏ, mở cửa, điều này khiến Macedonia trở thành nước dễ bị tác động bởi các nền kinh tế phát triển khác của châu Âu và khả năng phát triển kinh tế phụ thuộc vào hội nhập khu vực và quá trình gia nhập Liên minh châu Âu.
Macedonia có nhiều tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là chì và sắt, kẽm, niken và dầu mỏ. May mặc, thuốc lá, quế, rư¬ợu và hợp kim sắt là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu. Khai khoáng là ngành công nghiệp mũi nhọn của Macedonia; Sản xuất điện năng đạt 6,06 tỷ kWh, tiêu thụ 6,06 tỷ kWh. Macedonia là nư-ớc có mức sống thấp ở châu Âu. Xuất khẩu đạt 1,2 tỷ USD, nhập khẩu: 1,6 tỷ USD; nợ nước ngoài: 1,06 tỷ USD.
8. Serbia
GDP bình quân đầu người: 5.309 USD, xếp thứ 8 trong số 10 nước nghèo nhất châu Âu. Nền kinh tế Serbia là nền kinh tế có mức thu nhập trên trung bình theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới. Ở điểm đầu cuộc chuyển tiếp kinh tế năm 1989, nền kinh tế có những dấu hiệu phát triển tốt. Nhưng lệnh cấm vận kinh tế từ năm 1992 đến năm 1995, cũng như những tàn phá với ngành công nghiệp trong cuộc chiến tranh Kosovo đã huỷ hoại không khí kinh tế bên trong Serbia. Việc mất các thị trường Nam Tư cũ và khối Comecon ảnh hưởng nặng nề đến xuất khẩu.
Sự hồi phục của nền kinh tế vẫn gặp phải nhiều trở ngại, trong số đó có nạn thất nghiệp (14%) thâm hụt thương mại xuất nhập khẩu cao và khoản nợ khá lớn của đất nước. Serbia hy vọng nước này sẽ có một số xung lực cho phát triển và tăng trưởng cao trong những năm tới. Với tỷ lệ tăng trưởng cao trong những năm gần đây, trung bình ở mức 6,6% trong ba năm qua, những nhà phân tích nước ngoài thỉnh thoảng gọi Serbia là “Con hổ Balkan”.
9. Belarus
GDP bình quân đầu người: 6.739 USD, xếp thứ 9 trong số những nước nghòe nhất châu Âu. Mặc dù tài nguyên ít, song công nghiệp vẫn chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế của Belarus. Các ngành cơ khí lớn, hóa chất phân bón, lọc dầu và sợi tổng hợp là một phần của nền kinh tế Xô viết tập trung. Th¬ương mại của Belarus phụ thuộc vào các n¬ước cộng hoà của Li-bi (Liên Xô cũ) trong việc nhập khẩu nguyên liệu cho các ngành sản xuất trong n¬ước và thị trư¬ờng tiêu thụ sản phẩm công nghiệp. Sau khi độc lập, tách khỏi Liên bang Xô Viết, các nhà lãnh đạo nư¬ớc cộng hòa chủ tr¬ương cải cách ôn hoà. Tuy đã đạt đư-ợc một số thành tựu trong việc chuyển sang nền kinh tế thị tr¬ường như¬ng Belarus vẫn vấp phải những vấn đề khó khăn nhất định trong sự phát triển kinh tế.
10. Montenegro
GDP bình quân đầu người: 6.778 USD, xếp thứ 10 trong số những nước nghèo nhất châu Âu. Montenegro có dân số hiện nay là 684.736 người. Bao gồm nhiều sắc tộc khác nhau: người Montenegro 43%, người Serb 32%, người Bosnia 8%, người Albania 5%, các dân tộc khác (người Croatia, người Di-gan (Gypsy hay Romani)…) 12%. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Montenegro. Ngoài ra còn có các ngôn ngữ thiểu số như: tiếng Serbia, tiếng Albania, tiếng Croatia, tiếng Bosnia. Nền kinh tế dần thoát khỏi sự chi phối của Serbia, sử đồng Euro thay cho Dinar, gia nhập Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Sản xuất nhôm, du lịch và nông nghiệp là ngành kinh tế chủ chốt của Montenegro.
Xem thêm: