Trong lĩnh vực thơ ca Việt Nam từ cổ chí kim, bên cạnh rất nhiều nhà thơ nam nổi tiếng với hàng ngàn bài thơ được lưu truyền muôn thuở thì cũng tồn tại một bộ phận không nhỏ những áng văn thơ của phái nữ góp tiếng nói của mình vào dòng chảy chung của nền Văn học nước nhà. Nếu như thơ của những nhà thơ nam thường mang sắc thái mạnh mẽ, kiên cường, mang khí chất rắn rỏi, hiên ngang thì thơ của những nữ sĩ cũng không kém phần hào khí, thi vị, trữ tình.
Theo dòng phát triển của lịch sử, của chế độ kinh tế chính trị đất nước, tư tưởng phong kiến “Trọng nam khinh nữ” ngày càng phai mờ dần, thay vào đó là tư tưởng “Nam nữ bình quyền”. Chính vì vậy, ngày càng có nhiều phụ nữ được đi học. Điều đó tất yếu dẫn đến việc xuất hiện ngày càng nhiều nhà thơ nữ Việt Nam nổi tiếng, tài giỏi, để lại cho đời những tác phẩm bất hủ.
Sau đây, chúng ta hãy cùng điểm lại danh sách 10 nhà thơ nữ Việt Nam nổi tiếng nhất cùng những nét nổi bật trong cuộc đời và sự nghiệp của họ:
1. Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương là một nhà thơ Nôm nổi tiếng. Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam, “là nhà thơ độc đáo có một không hai trong lịch sử văn học dân tộc”. Các tác phẩm của bà đã bị mất nhiều, đến nay còn lưu truyền chủ yếu là những bài thơ chữ Nôm truyền miệng.
Lưu Hương Kí là tập thơ có nội dung tình yêu gia đình, đất nước, nó không thể hiện rõ cá tính mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương, cho nên, việc nghiên cứu giá trị thơ Hồ Xuân Hương chủ yếu được thực hiện trên những bài thơ Nôm truyền tụng của bà.
Đặc điểm của thơ Xuân Hương là không bao giở dửng dưng, lạnh nhạt. Nhà thơ luôn luôn có một trái tim cháy bỏng, nói đến cái gì là nói đến với tất cả sự xúc động chân thành của mình. Khi giận dữ thì thét lên, mắng chửi, khi yêu thương thì đằm thắm, ngọt ngào.
Một số bài thơ tiêu biểu của Hồ Xuân Hương như: Bánh trôi nước, Mời trầu, Cái quạt, Đánh đu, Chơi hoa, Duyên kỳ ngộ, Thơ tự tình,…
2. Bà Huyện Thanh Quan
Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh (1805-1848), là một nhà thơ nữ Việt Nam nổi tiếng thời cận đại. Nguyễn Thị Hinh người phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây, Hà Nội. Thân phụ là Nguyễn Lý (1755-1837), đỗ thủ khoa năm 1783, đời vua Lê Hiển Tông. Bà là học trò của danh sĩ Phạm Quý Thích (1760-1825), và là vợ Lưu Nghị (1804-1847), người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Ông đỗ cử nhân năm 1821 (Minh Mệnh thứ 2), từng làm tri huyện Thanh Quan (nay là huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình), nên người ta thường gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan. Chồng bà làm quan trải đến chức Bát phẩm Thư lại bộ Hình, nhưng mất sớm (43 tuổi).
Dưới thời vua Minh Mạng, bà được mời vào kinh giữ chức Cung Trung Giáo Tập để dạy học cho các công chúa và cung phi. Khoảng một tháng sau khi chồng mất, bà lấy cớ sức yếu xin thôi việc, rồi dẫn bốn con về lại Nghi Tàm và ở vậy cho đến hết đời.
Một số bài thơ tiêu biểu của Bà Huyện Thanh Quan gồm có: Qua đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà, Cảnh Hương Sơn, Thăng Long thành hoài cổ, Tức cảnh chiều thu,…
3. Sương Nguyệt Anh
Sương Nguyệt Anh tên thật là Nguyễn Thị Khuê (1864-1921). Ngoài bút hiệu Sương Nguyệt Anh, bà còn ký nhiều bút hiệu khác như: Xuân Khuê, Nguyệt Nga, Nguyệt Anh,… Bà là nhà thơ và là chủ bút nữ đầu tiên của Việt Nam. Tờ báo Nữ giới chung do bà phụ trách là tờ báo đầu tiên của phụ nữ được xuất bản tại Sài Gòn. Sương Nguyệt Anh sinh tại xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Bà là con gái thứ tư của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, mẹ bà là Lê Thị Điền, người làng Thanh Ba thuộc huyện Cần Giuộc.
Năm 1917, Sương Nguyệt Anh được một nhóm chí sĩ ái quốc mời làm chủ bút tờ Nữ giới chung nghĩa là “Tiếng chuông của nữ giới”. Tờ báo ra số đầu tiên ngày 01 tháng 02 năm 1918, với chủ trương nâng cao dân trí, khuyến khích công nông thương và nhất là đề cao vai trò phụ nữ trong xã hội.
Sương Nguyệt Anh sáng tác nhiều, nhưng không gom thành tập. Nay chỉ còn tản mác một số bài thơ, như: Đoan Ngọ nhật điếu Khuất Nguyên, Tức sự , Chinh Phụ thi, Thưởng bạch Mai, Vịnh ni cô, Vua Thành Thái vào Nam, Cảm tác khi lính Việt đi Âu chiến,…Và vài bài vè, như: Vè tiểu yêu, Vè Thầy Hỷ, Vè đánh đề,…
4. Lâm Thị Mỹ Dạ
Lâm Thị Mỹ Dạ sinh tại quê: huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Bà làm việc tại Ty văn hóa Quảng Bình, năm 1978 đến 1983 học Trường viết văn Nguyễn Du. Sau đó bà làm phóng viên, biên tập viên tạp chí Sông Hương (của Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Thừa Thiên – Huế). Lâm Thị Mỹ Dạ là ủy viên Ban chấp hành Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên – Huế, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III, ủy viên Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam khóa V. Hiện bà đang sống tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Chồng bà, Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng là một nhà văn, nhà thơ có tiếng ở Việt Nam.
Những giải thưởng mà nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã đạt được: Giải Nhất cuộc thi thơ báo văn nghệ 1971-1973; Giải thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam cho tập thơ Bài thơ không năm tháng; Giải A thơ của ủy ban toàn quốc các Hội Liên hoan Văn học nghệ thuật Việt Nam năm 1999. Giải A thơ Giải thưởng văn học Nghệ thuật Cố đô (1998-2004) của UBND tỉnh và Hội Liên hoan Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế. Năm 2007, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được Chủ tịch nước tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật với 3 tập thơ: Trái tim sinh nở (1974), Bài thơ không năm tháng (1983) và Đề tặng một giấc mơ (1988). Năm 2005, tập thơ Cốm non (Green rice) của chị được dịch ra tiếng Anh, in và phát hành tại Hoa Kỳ.
5. Xuân Quỳnh
Xuân Quỳnh (1942-1988), là một nhà thơ nữ Việt Nam nổi tiếng của thế kỷ XX. Bà được xem là nữ thi sĩ nổi tiếng với nhiều bài thơ tình được nhiều người biết đến như Thuyền và Biển, Sóng, Thơ tình cuối mùa thu, Tiếng gà trưa,… Bà tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày 6 tháng 10 năm 1942 tại làng La Khê, xã Văn Khê, ven thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Xuất thân trong một gia đình công chức, mẹ mất sớm, bố thường xuyên công tác xa gia đình, bà được bà nội nuôi dạy từ nhỏ đến khi trưởng thành.
Thơ Xuân Quỳnh giàu cảm xúc với những cung bậc khác nhau như chính tính cách luôn hết mình của Xuân Quỳnh. Những bài thơ khi hạnh phúc đắm say, lúc đau khổ, suy tư của nhà thơ luôn gần gũi vì được viết với sự đằm thắm của một người phụ nữ vừa làm thơ vừa làm vợ, làm mẹ. Nhiều bài thơ của Xuân Quỳnh đã trở nên nổi tiếng như Thuyền và biển, Sóng (viết năm 1967, in trong tập Hoa dọc chiến hào năm 1968), Hoa cỏ may, Tự hát, Nói cùng anh,… Các bài thơ Sóng, Chuyện cổ tích về loài người (Lời ru trên mặt đất, NXB Tác phẩm mới, 1978) được đưa vào sách giáo khoa phổ thông của Việt Nam. Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đã phổ nhạc rất thành công các bài thơ: Thuyền và biển, Thơ tình cuối mùa thu của Xuân Quỳnh.
6. Anh Thơ
Nữ sĩ Anh Thơ tên thật là Vương Kiều Ân, sinh năm 1921 tại thị trấn Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, trong một gia đình có truyền thống Nho học. Năm mười hai tuổi, Anh Thơ được bố đưa về quê nội ở thị xã Phủ Lạng Thương, bên bờ con sông Thương hiền hòa, thơ mộng. Từ đây, con đường thi ca của nữ sĩ bắt đầu hình thành và phát triển.
Bà đã gửi tập thơ đầu tay “Bức tranh quê” để tham dự và đã đạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn. Trong vẻ độc đáo hiếm có, “Bức tranh quê” đã đánh dấu cho sự đa dạng của một phương hướng từng chi phối thơ Việt trong cả thế kỷ XX. Với thành công của tập “Bức tranh quê”, bà là nhà thơ nữ đầu tiên đoạt giải thưởng lớn và được ví như một bức tranh tĩnh vật bằng thơ trước cách mạng.
Những tác phẩm chính trong suốt cuộc đời sáng tác của bà, gồm: Bức tranh quê (thơ-1941), Răng đen (tiểu thuyết-1942), Cuối mùa hoa (thơ), Từ bến sông Thương (hồi ký), Tiếng chim tu hú, Bên dòng chia cắt (hồi ký văn học). Với những cống hiến cho phong trào thơ mới như vậy, bà từng được ca ngợi là một cô nữ sĩ xinh đẹp nổi tiếng nhất đất Kinh Bắc.
7. Phan Thị Thanh Nhàn
Phan Thị Thanh Nhàn là một nhà thơ nữ Việt Nam nổi tiếng của thế kỷ XX, quê ở Tứ Liên, Tây Hồ, Hà Nội. Bà là Ðảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Ban chấp hành Hội trong giai đoạn 2001-2005. Phan Thị Thanh Nhàn làm thơ từ sớm, đầu những năm 1990 đã có thơ đăng báo. Bà được đông đảo bạn đọc biết đến với “Hương thầm” (bài thơ này đã được nhạc sĩ Vũ Hoàng phổ nhạc năm 1984). Ngoài làm thơ, bà còn viết báo, truyện ngắn, truyện cho thiếu nhi.
Những giải thưởng mà nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn đã đạt được gồm: Giải Nhì cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1969; Giải C Nhà xuất bản Kim Ðồng năm 1982 cho tác phẩm “Tuổi trăng rằm”; Giải A của Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội các năm 1974 và 1980; Năm 1999, bài thơ “Hương thầm” của bà đoạt giải nhì cuộc thi thơ của báo Văn nghệ; Giải A Nhà xuất bản Kim Ðồng năm 1995 cho tác phẩm “Bỏ trốn”; Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2008.
Một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ gồm có: Hương thầm (thơ,1973), Làm anh, Tháng giêng hai (thơ,1969), Chân dung người chiến thắng (thơ,1977), Bỏ (truyện thiếu nhi, 1995), Con đường, Nghiêng về anh (thơ, 1992), Xóm đê ngày ấy (truyện thiếu nhi,1977),…
8. Ý Nhi
Nhà thơ Ý Nhi tên thật là Hoàng Thị Ý Nhi, sinh năm 1944 tại thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam trong một gia đình có truyền thống về văn hóa nghệ thuật. Bà tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội 1968, từng làm cán bộ biên tập ở Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Hiện nay bà sống và sáng tác tại TP Hồ Chí Minh.
Bà nhận Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1985 với tác phẩm Người đàn bà ngồi đan. Cùng với Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Ý Nhi thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ nhưng thực sự nổi bật sau chiến tranh với những cách tân hiện đại, làm mới thơ Việt Nam về cả nội dung và hình thức. Thơ Ý Nhi giản dị mà đậm chất trí tuệ, giọng điệu thơ trầm lắng, suy tư, thiết tha mà chua xót. Với ngôn ngữ đậm chất triết luận, thơ Ý Nhi là sự ký thác sâu lắng của một trái tim không khi nào thôi khắc khoải trên hành trình đi tìm ý nghĩa cuộc đời.
Một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Ý Nhi gồm có: Nỗi nhớ con đường (1984), Đến với dòng sông (1978), Cây trong phố chờ trăng (1981), Người đàn bà ngồi đan (1985), Ngày thường (1987),…
9. Đoàn Thị Lam Luyến
Đoàn Thị Lam Luyến sinh năm 1953, là nhà thơ Việt Nam, là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1996), quê quán tại xã Anh Dũng, huyện Phù Tiên nay là huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Hiện nay, bà là Tổng Thư ký Hiệp hội quyền sao chép Việt Nam. Đoàn Thị Lam Luyến sớm được biết đến từ thập niên 80, 90 (thế kỷ 20) với tập thơ đầu tay mang tên “Lỡ một thì con gái”, được độc giả đón nhận và yêu quí nhất là độc giả nữ với chất thơ đầy tình yêu và nữ tính.
Giải thưởng mà nhà thơ Đoàn Thị Lam Luyến đã đạt được gồm có: Giải thưởng cuộc thi thơ báo văn nghệ 1989-1990; Giải thưởng thơ của Nhà xuất bản Hội nhà văn 1995 (Tập thơ “Châm khói”).
Một số bài thơ tiêu biểu của nhà thơ gồm có: Khát vọng, Đa mang, Đà Nẵng, Đàn bà, Đêm cành đa, Đến hang Bồ Nâu học đánh cờ, Đợi, Đừng hứa sẽ cho nhau, Ốc đảo,…
10. Ngân Giang
Ngân Giang (1916 – 2002) tên thật là Đỗ Thị Quế, là một nữ thi sĩ Việt Nam. Bà viết nhiều thơ mang hơi hướng thơ Đường, trong số đó có nhiều bài hay như Trưng Nữ Vương, Xuân chiến địa, Bạch Đằng giang,… Bà sinh ra trong một gia đình Nho học tại phố Hàng Trống, Hà Nội nhưng quê quán gốc của bà thì ở thôn Hướng Dương, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Thủ đô Hà Nội).
Trong khi nhiều nhà thơ lãng mạn cùng thời chịu ảnh hưởng của văn chương phương Tây thì Ngân Giang vẫn gắn bó với thơ Đường luật và các thể thơ dân tộc. Nặng lòng với quê hương, nhiều bài thơ của bà mang hình ảnh đất lạnh, xóm nghèo, chợ chiều, sông quạnh,…với một cảm tình nồng hậu nhưng man mác buồn.
Những tác phẩm tiêu biểu của nữ sĩ Ngân Giang gồm có: Giọt lệ xuân (nhật ký và thơ dưới bút danh Hạnh Liên); Tiếng vọng sông Ngân, Nhà xuất bản Lê Cường 1944; Những ngày trong hiến binh Nhật, Nhà xuất bản Đức Trí 1946; Những người sống mãi, Nhà xuất bản Sự Thật 1973; Ba tập Thơ Ngân Giang, Nhà xuất bản Phụ Nữ 1989 – Nhà xuất bản Trẻ 1991 – Nhà xuất bản Phụ Nữ 1994.
Xem thêm: